Vô địch thế giới lần thứ hai (1937–46) Alexander Alekhine

1937–39

Max Euwe đã nhanh chóng sắp xếp trận tái đấu với Alekhine, điều mà José Raúl Capablanca đã không có được sau khi Alekhine giành ngôi vua cờ năm 1927. Alekhine lấy lại danh hiệu từ tay Euwe vào tháng 12 năm 1937 với cách biệt lớn (+10 −4 =11). Trong trận đấu được tổ chức tại Hà Lan này, trợ tá của Euwe là Fine, còn Alekhine có Erich Eliskases. Trận đấu ban đầu khá cân bằng, nhưng đến gần kết thúc thì Euwe mất phong độ với bốn ván thua trong năm ván cuối cùng [42][61]. Fine chỉ ra rằng sự sụp đổ của Euwe do căng thẳng thần kinh, có thể trầm trọng hơn do những nỗ lực của Euwe nhằm duy trì một hình ảnh bình tĩnh trước mắt mọi người. Alekhine không còn chơi trận bảo vệ danh hiệu nào sau đó và giữ ngôi vua cờ cho đến khi qua đời [10].

Alekhine khởi đầu năm 1938 tốt đẹp với việc thắng giải Montevideo tại Carrasco (tháng 3) và tại Margate (tháng 4), đồng vô địch với George Alan Thomas tại Plymouth (tháng 9). Tuy nhiên đến tháng 11, ông chỉ đồng hạng 4–6 với Euwe và Reshevsky, xếp sau Keres, FineBotvinnik, xếp trên Capablanca và Flohr tại Giải cờ vua AVRO tổ chức ở Hà Lan. Giải đấu này được tổ chức tại một số thành phố của Hà Lan, mỗi vòng đánh tại một địa điểm khác nhau. Điều này có thể giải thích tại sao những kỳ thủ trẻ sung sức chiếm các thứ hạng cao, trong khi đó những kỳ thủ lớn tuổi mệt mỏi với việc di chuyển nên không có được kết quả tốt[10].

Ngay sau giải AVRO, Botvinnik, kỳ thủ về thứ ba, đã thách đấu Alekhine trong trận tranh ngôi vua cờ. Hai bên đã đồng ý về giải thưởng 10 000 đô la Mỹ với hai phần ba thuộc về người thắng. Nếu trận đấu được tổ chức ở Moskva thì Alekhine sẽ được mời sang ít nhất ba tháng trước đó để có thể tham dự những giải đấu khởi động. Những chi tiết khác chưa đồng thuận thì Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra đã cắt đứt cuộc thương thuyết. Phải đến khi kết thúc chiến tranh thì cuộc thương thuyết này mới được nối lại[62].

Keres, nhà vô địch AVRO, cũng thách đấu Alekhine để tranh ngôi vua cờ. Cuộc thương thảo đang tiến hành năm 1939 thì cũng bị ngắt bởi chiến tranh. Trong cuộc chiến thì quê hương của Keres, Estonia, ban đầu bị Liên Xô chiếm giữ, sau đó Đức rồi Liên Xô chiếm lại. Khi kết thúc cuộc chiến, chính quyền Xô viết cấm Keres tiếp tục thương thảo vì cho rằng ông đã cộng tác với người Đức trong thời gian họ chiếm đóng Estonia[63].

Alekhine ngồi bàn đầu của đội tuyển Pháp tại Olympiad cờ vua lần thứ 8Buenos Aires năm 1939 khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra ở châu Âu. Đội trưởng của các đội tuyển, với vai trò chủ đạo của Alekhine (Pháp), Tartakower (Ba Lan) và Becker (Đức), cùng với chủ tịch Liên đoàn cờ vua Argentina, de Muro, đã quyết định tiếp tục tiến hành Olympiad[64].

Alekhine giành huy chương bạc cá nhân (toàn giải hai giai đoạn ông bất bại với 9 thắng 7 hoà), xếp sau Capablanca (kết quả cá nhân chỉ tính thành tích ở giai đoạn hai)[65]. Không lâu sau Olympiad, Alekhine thống trị các giải cờ ở Montevideo (7/7) và Caracas (10/10).

Vào cuối tháng 8 năm 1939, cả Alekhine và Capablanca đều viết cho Augusto de Muro về trận tái đấu tranh ngôi vua cờ có thể xảy ra.

Chiến tranh thế giới thứ hai (1939–45)

Không như nhiều kỳ thủ tham dự Olympiad cờ vua 1939[65], Alekhine trở lại châu Âu vào tháng 1 năm 1940. Sau một thời gian ngắn ở Bồ Đào Nha[66], ông gia nhập quân đội Pháp, làm một nhân viên vệ sinh[56].

Sau khi Pháp thất thủ (tháng 6 năm 1940), ông chạy trốn tới Marseille. Alekhine tìm cách đến Mỹ bằng việc tới Lisbon và nộp đơn xin thị thực Mỹ. Vào tháng 10 năm 1940, ông xin nhập cảnh vào Cuba, hứa sẽ đấu một trận với Capablanca. Tuy nhiên đề nghị này bị từ chối[48]. Để bảo vệ vợ mình, Grace Alekhine, một phụ nữ Mỹ gốc Do Thái và tài sản của bà ở Pháp (một lâu đài ở Saint Aubin-le-Cauf, gần Dieppe, nơi quân Đức Quốc xã chiếm đóng), ông phải đồng ý hợp tác với người Đức[67]. Alekhine tham dự các giải cờ ở Munich, Salzburg, Kraków/WarszawaPraha, do Ehrhardt Post, the Chief Executive of the Nazi-controlled Grossdeutscher Schachbund ("Greater Germany Chess Federation"), tổ chức. Keres, Bogoljubov, Stoltz và một số kì thủ mạnh khác ở trong vùng bị Đức Quốc xã chiếm đóng cũng dự những giải này[68]. Năm 1941, ông đồng hạng nhì-ba với Erik Lundin tại Giải cờ vua Munich 1941 (Europaturnier vào tháng 9, Stoltz vô địch), đồng vô địch với Paul Felix Schmidt tại Kraków/Warszawa (tháng 10)[69] và vô địch tại Madrid (tháng 12). Vào năm tiếp theo ông vô địch tại Giải cờ vua Salzburg 1942 (tháng 6) và Munich (tháng 9. Chính quyền Quốc xã gọi giải đó là Europameisterschaft, có nghĩa là "Giải vô địch châu Âu").[70][71] Later in 1942 he won at Warsaw/Lublin/Kraków (the 3rd GG-ch; October 1942) and tied for first with Klaus Junge in Prague (Duras Jubileé; December 1942). Năm 1943 ông hòa một trấn đấu nhỏ (+1 −1) với Bogoljubov ở Warszawa (tháng 3), vô địch ở Praha (tháng 4) và đồng vô địch với Keres ở Salzburg (tháng 6).

Từ cuối năm 1943, phần lớn thời gian Alekhine ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đại diện cho Đức trong các giải đấu. Điều này giúp ông tránh được quân Liên Xô đang chiếm lại các khu vực ở Đông Âu[48][72]. Năm 1944, ông thắng sít sao trận đấu với Ramón Rey ArdidZaragoza (+1 −0 =3; tháng 4) và vô địch giải ở Gijon (tháng 7). Năm 1945, ông vô địch ở Madrid (tháng 3), đồng hạng nhì với Antonio Medina ở Gijón (tháng 7; Antonio Rico vô địch), vô địch tại Sabadell (tháng 8), đồng vô địch với F. López Núñez ở Almeria (tháng 8), vô địch ở Melilla (tháng 9) và về nhì ở Caceres, xếp sau Francisco Lupi (mùa thu 1945). Trận đấu cuối cùng của Alekhine là gặp Lupi tại Estoril gần Lisbon, Bồ Đào Nha, vào tháng 1 năm 1946. Alekhine thắng 2, hòa 1 và thua 1[13].

Alekhine quan tâm tới sự phát triển của thần đồng cờ vua Arturo Pomar và dành tặng một chương trong quyển sách cuối cùng của mình (¡Legado! 1946) tới cậu bé. Họ từng gặp nhau ở Gijon 1944, khi Pomar mới 12 tuổi đã có ván hòa đáng nhớ trước vua cờ[73].

Những năm tháng cuối đời

Mộ của Alexander Alekhine ở Paris, Pháp

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Alekhine không còn được mời tham dự giải đấu nào ngoài bán đảo Iberia, bởi vì những cáo buộc cộng tác với Đức Quốc xã trong chiến tranh. Lời mời tham dự Giải London năm 1946 cũng bị hủy vì sự phản đối của các đấu thủ khác[6].

Trong khi đang chuẩn bị cho trận tranh ngôi vô địch thế giới với Botvinnik[62], Alekhine qua đời tại phòng khách sạn ở Estoril, Bồ Đào Nha vào ngày 24 tháng 3 năm 1946. Nguyên nhân cái chết của ông vẫn còn không rõ ràng. Nó thường được cho là do đau tim, nhưng một lá thư trên tạp chí Chess Life của một nhân chứng trong cuộc khám nghiệm tử thi cho biết nguyên nhân là nghẹn thịt. Khi khám nghiệm, người ta tìm thấy một miếng thịt dài khoảng 7–8 cm chưa nhai đã tắc ở khí quản Alekhine[74]. Một giả thiết khác thì cho rằng một "nhóm sát nhân" của Pháp đã ám sát ông. Thời gian sau này, con trai của Alekhine, Alexander Alekhine Junior, cho rằng "bàn tay của Moskva đã nhúng vào vụ việc"[75]. Đại kiện tướng người Canada Kevin Spraggett từng sống ở Bồ Đào Nha vào cuối thập niên 1980, cũng từng nghiên cứu về cái chết của Alekhine, ủng hộ giả thuyết này. Spraggett makes a case for the manipulation of the crime scene and the autopsy by the Portuguese secret police PIDE. Ông tin rằng Alekhine bị ám sát bên ngoài phòng khách sạn, có thể do người Liên Xô thực hiện[76].

Đám tang của Alekhine được FIDE tài trợ. Mộ phần của ông đặt tại Nghĩa trang Montparnasse, Paris, Pháp từ năm 1956 [77][78].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Alexander Alekhine http://72.14.205.104/search?q=cache:Uv0K9qUrveUJ:w... //nla.gov.au/anbd.aut-an35002877 http://chess.about.com/od/worldchampionship/p/aa05... http://www.alekhinechess.com/english/alekhine/resu... http://www.angelfire.com/games/SBChess/vignette.ht... http://members.aol.com/graemecree/chesschamps/worl... http://kevinspraggett.blogspot.com/2009/03/part-1-... http://kevinspraggett.blogspot.com/2009/03/part-2-... http://www.chessarch.com/excavations/0009_alexey/a... http://www.chessbase.com/newsdetail.asp?newsid=116...